GIẢI PHÁP NÀO ĐỂ PHÁT TRIỂN VÀ HUY ĐỘNG CÁC LOẠI NGUỒN NĂNG LƯỢNG SẠCH?

Hệ thống năng lượng Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải chuyển đổi linh hoạt và bền vững để đáp ứng xu hướng phát triển năng lượng sạch. Bài viết đề xuất các giải pháp chiến lược, từ chính sách khuyến khích, cơ chế tài chính, nâng cấp hạ tầng, đến đổi mới đào tạo, nhằm tối ưu hóa hiệu suất hệ thống, giảm phụ thuộc vào điện than và tăng cường an ninh năng lượng trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Một năm mới đã đến, và có nhiều điều mới mẻ sẽ đến với chúng ta. Để đón nhận chúng, ta phải linh hoạt hơn, sẵn sàng hơn, hợp tác hơn, sâu sắc và hấp dẫn hơn, vững vàng và bao dung hơn, sáng tạo hơn, và bên cạnh đó vẫn cần gìn giữ những bản sắc có ý nghĩa. Hệ thống điện nói riêng và năng lượng nói chung cũng sẽ phải như vậy. Để phát triển được và huy động nhiều hơn các loại nguồn năng lượng sạch như mặt trời, gió, thủy điện, sinh khối…, hệ thống năng lượng Việt Nam phải linh hoạt hơn, sẵn sàng về cơ chế và hạ tầng, hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư, nâng cao khả năng làm chủ công nghệ, khả năng chống đỡ thiên tai, sẵn sàng về nhân lực và chương trình đào tạo. Bên cạnh đó, việc phát triển, tiếp nhận các nguồn năng lượng sạch cần được đồng bộ chặt chẽ với việc thay thế các nguồn điện than. Trong thời gian sắp tới, Việt Nam cần chú trọng vào các giải pháp sau để nâng cao khả năng phát triển và huy động các loại nguồn điện sạch:

Một là, thúc đẩy nhanh việc hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư vào tính linh hoạt của hệ thống điện, song song với việc đầu tư phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo, trong đó phối hợp vai trò của pin tích trữ, điều tiết phụ tải, thủy điện tích năng và nhiệt điện một cách phù hợp, nhằm xây dựng khả năng linh hoạt ngắn hạn và linh hoạt theo mùa. Một số việc cần làm trước mắt là ban hành cơ chế tạo thị trường cho pin tích trữ quy mô lớn trên lưới điện, nâng giới hạn công suất pin tích trữ trên lưới trong quy hoạch điện VIII, và thúc đẩy dự án thủy điện tích năng thứ hai.

Hai là, đẩy mạnh việc phát triển nguồn điện năng lượng sạch trong sự đồng bộ chặt chẽ với việc giảm tỷ trọng các nguồn điện than, thông qua việc kiểm soát tỷ lệ chi phí cho năng lượng sạch và điện than. Theo IEA, việc giảm đầu tư vào điện than trước khi tăng cường đầu tư vào năng lượng sạch vừa có thể làm tăng chi phí, vừa không đảm bảo một quá trình chuyển đổi năng lượng an toàn.

Ba là, đẩy nhanh việc nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế tài chính và huy động vốn cho đầu tư phát triển dự án điện lực. Đồng thời chú trọng việc thu hút nguồn vốn FDI để giải quyết nhu cầu vốn rất lớn cho việc phát triển các nguồn điện đến 2030 và sau đó.

Bốn là, sớm hoàn thiện các cơ chế thị trường điện cạnh tranh, cơ chế đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án điện lực, cơ chế giá điện hai thành phần. Các cơ chế này góp phần thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia phát triển nguồn điện, đồng thời tăng khả năng huy động tài chính nội bộ của EVN.

Năm là, sớm hoàn thiện hành lang pháp lý làm cơ sở để triển khai thiết kế, xây dựng, vận hành cơ sở hạ tầng liên quan đến khí LNG, trong đó có cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu LNG, bao gồm các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về kỹ thuật.

Sáu là, sớm hình thành các trung tâm nghiên cứu cơ bản cũng như trung tâm nghiên cứu quốc tế về năng lượng sạch, năng lượng mới, công nghệ lưu trữ carbon tại Việt Nam. Bên cạnh đó cần xem xét cho phép triển khai cơ chế thử nghiệm (sandbox regulatory) cho phân ngành Điện và ngành Năng lượng.

Bảy là, thúc đẩy khả năng chống đỡ thiên tai của hệ thống nguồn năng lượng, đặc biệt là các nguồn điện mặt trời, điện gió và hệ thống truyền tải, phân phối nhằm hạn chế ảnh hưởng của các sự kiện thời tiết cực đoan đang có tần suất và cường độ ngày càng tăng và mang lại những rủi ro lớn đối với hệ thống điện nói riêng và an ninh năng lượng nói chung.

Tám là, tích cực đổi mới chương trình, nội dung đào tạo ngành điện, gắn với thực tế chuyển dịch năng lượng và ứng dụng công nghệ lưới điện thông minh.

Thực hiện: TS Trần Huỳnh Ngọc - TR&D PECC2

Chia sẻ: