Phần 1- Thể chế, cơ chế và chính sách cho phát triển năng lượng
Vai trò quan trọng của thể chế trong phát triển đất nước
Theo nhà kinh tế học người Mỹ Douglass North (Giải Nobel kinh tế 1993), thể chế (Institutions) là những quy tắc hay luật chơi do con người tạo ra để điều chỉnh các tương tác về xã hội, chính trị và kinh tế.
Ba cấu thành quan trọng của hệ thống thể chế gồm: thể chế chính thức (hiến pháp, luật pháp, các văn bản dưới luật), thể chế không chính thức (tập quán, truyền thống, chuẩn mực ứng xử trong xã hội v.v.) và cơ chế thực thi (bao gồm cả biện pháp chế tài). Thể chế có vai trò quyết định đối với sự hình thành và hoạt động của cơ chế, chính sách.
Cơ chế thể hiện quy luật vận hành của một hệ thống, nêu rõ sự tương tác giữa các yếu tố cấu thành hệ thống và nhờ vào việc tương tác đó mà hệ thống hoạt động. Cơ chế có thể được hiểu là cách thức, phương pháp, công cụ được sử dụng để tác động, điều khiển, kiểm soát đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã xác định. Cơ chế chịu sự tác động trực tiếp bởi thể chế.
Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị chung để định ra chính sách. Chính sách được hiện thực hóa bằng việc sử dụng các công cụ điều hành (cơ chế quản lý).
Mối quan hệ giữa thể chế, cơ chế và chính sách có tính chất tương hỗ. Thể chế tạo khung khổ nguyên tắc để hình thành chính sách và chính sách giữ vai trò tác động trực tiếp cho sự vận hành của cơ chế thông qua các công cụ nhất định. Mặt khác, chính sách phản ánh một cách trung thực, khách quan điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước ở thời điểm hiện tại và dự báo khả năng, khuynh hướng phát triển trong tương lai; và từ cơ sở đó, chính sách mang tính định hướng và là nền tảng để chế định nên pháp luật, hay pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách.
Ngay từ Đại hội lần thứ XI và tiếp tục được khẳng định tại các Đại hội lần thứ XII và XIII của Đảng, ba đột phá chiến lược được đặc biệt chú trọng là thể chế, nhân lực và kết cấu hạ tầng [1], cụ thể:
Về thể chế: Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu.
Về nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ.
Về kết cấu hạ tầng: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, về môi trường và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Trong ba đột phá chiến lược đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) nhấn mạnh vai trò quan trọng của thể chế: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
Hiện nay, Chính phủ đề ra 5 nội dung chính sau đây nhằm xây dựng thể chế phát triển nhanh và bền vững của đất nước [2]: (i) Tạo lập cơ sở pháp lý để kiến tạo, phát triển năng lực các chủ thể, phát huy đúng vai trò của từng chủ thể; (ii) Tạo lập cơ chế, chính sách huy động và phân bổ mọi nguồn lực; điều tiết hài hòa lợi ích phát triển giữa các chủ thể; (iii) Tạo lập "sân chơi" lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực; (iv) Tạo lập khung khổ pháp lý phù hợp để hội nhập quốc tế có hiệu quả cao, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; (v) Tạo lập cơ chế vận hành, kiểm soát có hiệu quả, khắc phục, phòng ngừa các rủi ro, tiêu cực.